Lịch sử đã tạo ra các quốc gia
có chủ quyền với cương vực rõ ràng. Tìm hiểu nguồn gốc quốc hiệu, nguồn gốc dân
tộc qua lịch sử để tự hào rằng mảnh đất dưới chân ta, núi sông biển đảo ngày
nay là của cha ông ta truyền lại cho hậu thế.
ĐẠI NAM NHẤT THỐNG TOÀN ĐỒ
N.V.X - Nhân dịp Tết Dương lịch 2014, xin đăng lại bài TÊN NƯỚC TA được đăng trên Báo
Tuổi Trẻ Cuối tuần của tác giả Phạm Hoàng Quân để mọi người tham khảo. Đây là bài
viết ngắn gọn, cô đọng, đã khái quát được quá trình hình thành tên nước, từ thời dựng nước của các Vua Hùng đến Quốc hiệu Việt Nam thiêng liêng ngày nay.
Qua đó càng thêm tự hào với truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc và những
giá trị cao cả mà Tổ Tiên để lại. (Đoạn văn in đậm dưới tiêu đề và Đại Nam Nhất
thống Toàn đồ là của Tuổi Trẻ Cuối tuần).
Thời kỳ
chưa có sử ghi chép, theo truyền thuyết, họ Hồng Bàng với các vua Hùng dựng nước
gọi là nước Văn Lang (2879-258 BC), thời An Dương Vương gọi là nước Âu Lạc
(258-206 BC), thời kỳ này chưa có sử nên các năm tháng chỉ được phỏng định dựa
trên nhiều nguồn tư liệu.
Giai đoạn
lệ thuộc Trung Hoa, thời nhà Tần (221-206 BC) gọi Tượng Quận; thời Hán (206-220
BC) chia Tượng Quận ra làm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam; cuối thời Hán
đổi Giao Chỉ là Giao Châu, thời Tam Quốc, năm 220, nhà Ngô đặt chức An Nam tướng
quân (vị tướng định yên phương nam) cai quản Giao Châu; thời nhà Đường đặt làm
An Nam đô hộ phủ.
Những
tên Giao Chỉ, Giao Châu, An Nam mang tính tiêu biểu, tuy chúng được gắn với
các đơn vị hành chính (phủ, châu, quận) nhưng thường được sách sử Trung
Hoa đương thời và sau này ghi chép để chỉ toàn khu vực Bắc bộ nước ta ngày nay.
Trong những
tên do ngoại nhân đặt gọi, tên An Nam ảnh hưởng sâu rộng lâu dài nhất, tên gọi
này dần dần bị quên đi bản nghĩa, được hiểu đơn thuần là một cái tên trong lịch
sử, trở thành sự nói quen miệng viết quen tay từ trí thức đến dân gian.
Từ Nam
Việt đến Việt Nam
Trong
vài thời đoạn ngắn ngủi của lịch sử, những cách gọi như Vạn Xuân (544-602) hàm
ý mong mỏi tốt đẹp lâu dài, Đại Cồ Việt (968-1054) hiên ngang tự tại hoặc Đại
Ngu (1400-1407) biểu thị nguồn gốc dòng dõi cao sang, phần lớn thời gian tên nước
ta gắn bó trường kỳ theo hệ danh xưng xác định tộc người phối hợp xác định
phương hướng, với Nam Việt, Đại Việt, Đại Nam, Việt Nam.
Khởi đầu
cho việc lấy phương hướng gắn với tên tộc người là quốc hiệu Nam Việt tồn tại
96 năm (207-111 BC) qua năm đời vua.
Tuy Nam
Việt thuở ấy gồm cả Đông Việt (Quảng Đông), Tây Việt (Quảng Tây), có lúc còn buộc
nước Mân Việt (Phước Kiến), nước Đông Âu (Chiết Giang) phải thần phục, Triệu Đà
là nhân vật lịch sử gây nhiều tranh cãi nhưng rõ ràng là người khí phách và
chính danh, đã vạch một nét ranh Nam Bắc không chỉ trên đất mà còn ăn sâu vào cả
trong tâm thức nhiều đời. Tác giả Việt Sử Yếu đã công tâm khi nhận định “Triệu
vương quả thật là người dẫn đầu cho nước Việt Nam chúng ta về sau trong công cuộc
xây dựng nền độc lập vậy”.
Sau ngàn
năm Bắc thuộc, đất Giao Chỉ, Giao Châu, An Nam tách rời Lưỡng Quảng với phần đất
gần như vùng Bắc bộ Việt Nam ngày nay, qua họ Ngô dựng nền tự chủ, họ Đinh, họ
Lê khởi lập nước Đại Cồ Việt, tạo nền tảng vững chắc cho họ Lý lập nhà nước Đại
Việt. Tên gọi Đại Việt tồn tại 784 năm (1054-1802), lâu dài nhất trong lịch sử
nước ta.
Dùng chữ
Đại trong Đại Việt không hẳn là mô phỏng Đại Đường, Đại Tống, càng không với ý
kiêu căng tự đại, mà đó là tâm nguyện, là ý chí mở mang rộng lớn. Đất dày biển
rộng đã không phụ sự nỗ lực và niềm mong ước của vua Lý Thánh Tông, Đại Việt
ngày càng vững mạnh, lớn lên không ngừng cả về nội lực dân tộc và cương giới.
Họ Trần
vẫn giữ tên Đại Việt, không chỉ giữ vững đất nước bằng những chiến công hiển
hách, tên nước Đại Việt còn được đặt uy nghi trên bìa sách Đại Việt sử ký. Quốc
sử ra đời không chỉ khẳng định sự trưởng thành của nền học thuật mà còn thể hiện
ý thức trách nhiệm của một triều đại đối với tương lai của đất nước.
Ngày
17-2 năm Giáp Tý (1804), vua Gia Long tuyên chiếu đặt quốc hiệu Việt Nam, bố cáo trong và ngoài nước (Đại Nam thực
lục). Đây là thời điểm núi sông trời biển nước ta liền lạc một cõi, bản đồ cương
giới hoàn chỉnh gần như hiện trạng ngày nay.
Một sự
tình cờ nào đó của lịch sử đã khiến cái tên Việt Nam thân yêu xuất hiện vào một
năm rất đẹp, Giáp đứng đầu thiên can và Tý đứng đầu địa chi, Giáp Tý khởi đầu
hoa giáp (chu kỳ 60 năm âm lịch), điểm này dù nhỏ nhưng có thể là yếu tố tinh
thần lẫn trong muôn ngàn yếu tố kết thành động lực vươn lên.
Năm
1838, vua Minh Mạng đổi quốc hiệu Đại Nam, hoặc gọi Đại Việt Nam, tinh thần chữ
Đại xuất phát từ chỗ “Nay bản triều có cả phương Nam, bờ cõi ngày càng rộng, một
dải phía Đông đến tận biển Nam, vòng qua biển Tây” (Đại Nam thực lục). Đại Nam nhất
thống toàn đồ được thực hiện trong thời gian này đã trở thành một sử liệu cực
quan trọng, vừa là biểu tượng mang tính chính danh vừa tỏ rõ phạm vi chủ quyền
lãnh thổ.
Năm
1912, Phan Bội Châu lập Việt Nam
quang phục hội, trong kế hoạch xây dựng Việt Nam cộng hòa dân quốc (Phan Bội
Châu niên biểu). Công cuộc này không thành nhưng tên gọi Việt Nam được những người tiến bộ trong
và ngoài nước chú ý.
Năm
1919, Trần Trọng Kim viết: “Quốc hiệu nước ta thay đổi đã nhiều lần, tuy rằng
ngày nay ta vẫn theo thói quen dùng hai chữ An Nam,
nhưng vì hai chữ ấy có ngụ ý phải thần phục nước Tàu, vậy thì ta nên nhất định
lấy tên Việt Nam mà gọi nước
nhà” (Việt Nam
sử lược). Tên Việt Nam
từ năm 1804 được gọi trở lại, thêm ý nghĩa thiêng liêng, là điểm tựa để cố kết
tinh thần dân tộc trong công cuộc chống ngoại xâm giành độc lập.
Từ năm
1945 đến nay, hai chữ Việt Nam là niềm tự hào của cả dân tộc, vượt ra ngoài các
thể chế chính trị, trở thành tên gọi mang đến sự ấm áp như một mái nhà chung của
các đời anh em.
Nước Việt của người Việt
Tuy nước
ta chịu ảnh hưởng nhiều mặt về chính trị, văn hóa và tư tưởng của Trung Hoa, vấn
đề tên nước trong lịch sử lại là một trong những điểm biểu hiện sự khác biệt.
Trung Hoa xưng (nhà) nước Đại Đường, Đại Tống, Đại Minh..., mỗi triều đại là của
một họ, không tìm thấy một cái tên thống nhất cho toàn dân, còn chữ Trung Hoa
thời quân chủ không phải là quốc hiệu.
Ở ta,
tên nước Đại Việt trải qua nhiều triều đại của các họ Lý, Trần, Lê gần 800 năm;
tên nước Việt Nam được đặt định từ thời quân chủ cho đến nay đã hơn 200 năm.
Cho dù là Đại Việt hay Việt Nam, chữ Việt rõ ràng là một nền tảng, chữ Việt có
nghĩa “vượt qua”, luôn ẩn tàng trong từng cá thể chung một tinh thần quyết chí
vươn tới trước.
Như dấu
tích ngàn xưa của nhiều dân tộc cùng gốc Việt, gắn với cội nguồn sâu xa của chủng
tộc Bách Việt phân bố trên không gian rộng lớn và rất cơ động. So với vài mươi
nhánh mang tộc danh Việt còn dấu vết văn hóa, nhiều nhánh Việt từng lập quốc
trước Công nguyên như Mân Việt, Đông Việt, Tây Việt, Điền Việt thì Lạc Việt -
Việt Thường - Âu Việt... giữ được cội nguồn văn hóa với một cõi riêng trong trời
đất.
Hoàn cảnh
địa lý cùng với không gian văn hóa là những yếu tố khiến một quốc gia tồn tại độc
lập và bền vững, đây là điều mà danh thần thời Lê Nguyễn Trãi nói lên bằng khái
niệm: “Núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác”. Cùng với giang sơn
gấm vóc và kho tàng văn hiến của cha ông để lại, chúng ta may mắn được hằng
ngày gọi hai chữ Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét